Đời sống

Vùng cao sinh nhiều con, phố thị ngày càng đẻ thưa: Nguyên nhân nào đang định hình tương lai dân số Việt Nam?

Khi TP HCM sinh thấp kỷ lục, nhiều địa phương miền núi vẫn duy trì mức sinh cao vượt ngưỡng thay thế, làm lộ rõ chênh lệch mức sinh đang tác động sâu sắc tới cấu trúc mức sinh Việt Nam.

Bức tranh mức sinh Việt Nam đang cho thấy sự phân hóa ngày càng rõ rệt giữa các vùng miền. Theo báo cáo công bố dịp Ngày Dân số Việt Nam 26/12, mức sinh trung bình toàn quốc năm 2025 đạt 1,93 con/phụ nữ, tăng nhẹ so với năm trước nhưng vẫn thấp hơn ngưỡng thay thế 2,1 con. Đáng chú ý, khoảng cách giữa các địa phương tiếp tục nới rộng, phản ánh những khác biệt sâu sắc về kinh tế, văn hóa và điều kiện sống.

Cụ thể, có tới 19 tỉnh, thành ghi nhận mức sinh trên 2,2 con, trong khi 11 địa phương rơi xuống dưới mốc 2,0. TP HCM có mức sinh thấp nhất nhóm đô thị lớn với 1,51 con/phụ nữ, trái ngược hoàn toàn với các tỉnh miền núi phía Bắc như Điện Biên, Lai Châu, Sơn La hay Lào Cai, nơi nhiều năm liền duy trì tỷ lệ sinh cao. Thực trạng này cho thấy chênh lệch mức sinh không chỉ là con số thống kê mà đang trở thành xu hướng bền vững.

Lý giải nguyên nhân, các chuyên gia cho rằng nền tảng kinh tế đóng vai trò quyết định. Tại những khu vực sản xuất nông, lâm nghiệp là chủ yếu, đặc biệt ở Tây Bắc và Tây Nguyên, trẻ em vẫn được xem là nguồn lực lao động quan trọng. Việc vùng cao sinh nhiều con không chỉ phục vụ sản xuất trước mắt mà còn mang ý nghĩa an sinh lâu dài, khi con cái trở thành chỗ dựa cho cha mẹ lúc tuổi già.

sinh 1s
Hai em bé chào đời dịp giao thừa năm 2025. Ảnh: Ngọc Ngân

Ngược lại, tại các đô thị phát triển, áp lực chi phí sinh hoạt, nhà ở, giáo dục và y tế khiến quyết định sinh con trở nên thận trọng hơn. TP HCM có mức sinh thấp phản ánh lối sống đô thị hiện đại, nơi nhiều cặp vợ chồng ưu tiên ổn định tài chính, sự nghiệp và chất lượng sống trước khi nghĩ tới việc có con, thậm chí chấp nhận sinh ít hoặc không sinh.

Trình độ học vấn của phụ nữ cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới mức sinh Việt Nam. Ở các địa bàn miền núi, tỷ lệ phụ nữ học hết phổ thông còn hạn chế, tình trạng tảo hôn vẫn tồn tại, kéo dài thời gian sinh sản và làm tăng số con trong một gia đình. Trong khi đó, phụ nữ thành thị kết hôn muộn hơn, có điều kiện tiếp cận thông tin và chủ động kiểm soát kế hoạch sinh con.

Bên cạnh kinh tế và giáo dục, yếu tố văn hóa truyền thống tiếp tục duy trì mức sinh cao tại dân số miền núi. Quan niệm “đông con nhiều phúc”, mong muốn “có nếp có tẻ” hay tâm lý sinh bù để phòng rủi ro vẫn ăn sâu trong đời sống cộng đồng. Hệ thống dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, phương tiện tránh thai hiện đại chưa phủ rộng đến các bản làng xa xôi, khiến nhiều phụ nữ sinh nhiều con do thiếu điều kiện tiếp cận thông tin và dịch vụ.

Các chuyên gia cảnh báo, nếu chênh lệch mức sinh kéo dài, hệ lụy xã hội sẽ ngày càng rõ rệt. Gia đình đông con tại vùng khó khăn khiến nguồn lực đầu tư cho giáo dục bị chia nhỏ, chất lượng nguồn nhân lực tương lai suy giảm. Ngược lại, mức sinh thấp kéo dài ở đô thị lớn có nguy cơ dẫn tới già hóa dân số sớm, thiếu hụt lao động và áp lực an sinh.

Trước thực tế đó, ngành dân số được yêu cầu điều chỉnh cách tiếp cận theo hướng linh hoạt, phù hợp từng vùng. Với khu vực vùng cao sinh nhiều con, giải pháp trọng tâm là nâng cao dân trí, cải thiện sinh kế, mở rộng dịch vụ y tế và tăng quyền quyết định cho phụ nữ. Với đô thị nơi TP HCM có mức sinh thấp, cần chính sách hỗ trợ thiết thực để khuyến khích sinh đủ con, hướng tới cân bằng bền vững cho mức sinh Việt Nam trong dài hạn.