Nói đến ngành tình báo, tướng huyền thoại Đặng Trần Đức (ông Ba Quốc) là cái tên được nhiều thế hệ ngưỡng mộ. Chuyện tình cảm của ông với 2 người vợ cũng thuộc dạng hiếm có khó tìm. Đó không chỉ là tình cảm đôi lứa mà còn thể hiện sự hy sinh phi thường, lòng trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, niềm tin vào lý tưởng cách mạng.
Cuộc đời đặc biệt của Thiếu tướng tình báo Ba Quốc và hai người phụ nữ thầm lặng phía sau
Những ngày này, tại Nhà tưởng niệm Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân, Thiếu tướng Đặng Trần Đức (1922–2004), tức Ba Quốc, ở phường Vĩnh Hưng (Hà Nội), bà Đặng Chính Giang (77 tuổi, con gái ông) vẫn đều đặn cùng con cháu lau dọn, thắp hương tưởng nhớ cha. Con đường mang tên ông Ba Quốc được TP Hà Nội đặt cách đây hơn hai năm cũng chính là nơi gia đình bà Giang sinh sống, như một sự tiếp nối lặng lẽ của ký ức lịch sử.
Thiếu tướng Đặng Trần Đức là một trong những điệp viên huyền thoại của tình báo Việt Nam. Suốt cuộc đời hoạt động, ông giữ vị trí đặc biệt bí mật, ngay cả trong lực lượng vũ trang và với nhiều lãnh đạo cấp cao. Những chiến công của ông trải dài qua các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và phía Bắc, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cách mạng và giảm thiểu tổn thất sinh mạng trong chiến tranh.
Ít người biết rằng, phía sau sự nghiệp tình báo đặc biệt ấy là câu chuyện hy sinh thầm lặng của hai người phụ nữ – hai người vợ, gắn với một “vỏ bọc” hiếm có trong lịch sử tình báo Việt Nam.
Kết hôn "giả" với sự đồng ý của vợ
Theo lời kể của bà Đặng Chính Giang, đầu năm 1954, tổ chức quyết định đưa ông Đặng Trần Đức, khi đó hoạt động trong hệ thống mật thám Pháp với tên gọi Nguyễn Văn Tá, vào miền Nam để tiếp tục làm nhiệm vụ. Để hợp thức hóa thân phận, ngành tình báo yêu cầu ông phải tổ chức một đám cưới “giả” với người khác.
Khi đại diện tổ chức đến xin ý kiến, bà Phạm Thị Thanh – người vợ đầu của ông đã chấp nhận hy sinh hạnh phúc riêng, nói với chồng: “Việc gì có lợi cho Đảng, cho Tổ quốc thì anh cứ làm”.
Thời điểm đó, con gái đầu lòng của ông bà mới 5 tuổi, người con thứ hai còn chưa chào đời. Sau khi ông “theo địch vào Nam”, mẹ con bà Thanh phải chuyển lên Nông trường chè Vân Lĩnh (Thanh Ba, Phú Thọ). Cuộc sống vô cùng khó khăn, lương nông trường chỉ đủ nuôi mẹ già và hai con nhỏ. Không chỉ thiếu thốn vật chất, họ còn chịu sự xa lánh, dè bỉu, phân biệt trong sinh hoạt và học tập.
“Có lúc tôi hỏi mẹ, có phải vì bố theo giặc nên chị em tôi mới bị đối xử như vậy không. Mẹ chỉ nói một câu: ‘Bố con không phản quốc, con cứ tin là như thế’”, bà Giang nhớ lại.
Vỏ bọc hoàn hảo ở miền Nam với người vợ thứ hai
Trong khi đó, tại miền Nam, để xây dựng vỏ bọc hoàn hảo, tổ chức bố trí ông Đặng Trần Đức kết hôn với bà Ngô Thị Xuân, con gái một công chức có quan hệ rộng. Nhờ thân phận “không dính dáng cách mạng” và sự khéo léo của bà Xuân, ông Ba Quốc hoàn thiện vai trò sĩ quan cảnh sát quốc gia tại Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo Sài Gòn.
Ban đầu, bà Xuân không hề biết chồng là điệp viên. Dần dần, qua những chuyến đi bất thường, những đêm làm việc bí mật, bà hiểu và âm thầm làm hậu phương. Dù phải nuôi bốn con trong cảnh thiếu thốn, bà vẫn không một lời thắc mắc, chuẩn bị sẵn gạo và tiền phòng trường hợp cả gia đình bị bắt.
Năm 1974, khi đường dây bị lộ, ông Ba Quốc rút vào căn cứ. Bà Xuân và các con bị bắt, trải qua nhiều tháng thẩm vấn khốc liệt nhưng vẫn giữ trọn kịch bản, không ai khai báo. Nhờ đó, mạng lưới tình báo được bảo toàn đến ngày giải phóng.
Đoàn tụ sau hơn 20 năm chia cách
Ngày 1/5/1975, khi đất nước thống nhất, bà Giang vẫn nhớ khoảnh khắc người chú báo tin: “Anh cả về rồi”. Cuộc đoàn tụ sau hơn 20 năm xa cách diễn ra đầy xúc động. Người con trai lần đầu gặp cha khi đã hơn 21 tuổi, còn ông Ba Quốc lặng người khi nghe tiếng con chào.
Tuy nhiên, niềm vui đoàn tụ không trọn vẹn. Chưa đầy hai ngày sau khi trở về, ông lại phải vào Nam tiếp tục công tác. Phải hơn một năm sau, gia đình mới thực sự sum họp.
Dần dần, hai gia đình hiểu và xích lại gần nhau. Con của bà Thanh gọi bà Xuân là “mợ”, con của bà Xuân gọi bà Thanh là “mẹ cả”. Không có sự phân biệt, chỉ có sự thấu hiểu những hy sinh chung vì Tổ quốc.
Những năm cuối đời, ông Đặng Trần Đức chăm sóc tận tình cho bà Phạm Thị Thanh khi bà bị liệt nặng. Ông từng nói: “Ngày xưa bà gánh tôi qua chiến tranh, giờ đến lượt tôi gánh bà qua tuổi già”.

Vợ chồng ông Đức và bà Thanh cùng con cháu tại Hà Nội vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1982. Ảnh: GĐCC

Vợ chồng ông Đặng Trần Đức, bà Ngô Thị Xuân cùng con cháu trong lễ mừng thọ ông tròn 80 tuổi ở TP.HCM. Ảnh: GĐCC
Thiếu tướng Ba Quốc qua đời năm 2004, bà Ngô Thị Xuân mất năm 2006. Đến nay, con cháu hai miền Nam – Bắc của ông vẫn coi nhau như một gia đình. Theo bà Giang, đó chính là tài sản lớn nhất mà cha mẹ để lại.
“Chúng tôi luôn nhắc con cháu sống tử tế, yêu thương nhau và noi gương sự hy sinh của ông bà, cha mẹ”, bà Giang nói.
Thiếu tướng Đặng Trần Đức (tức Ba Quốc) có hơn 21 năm hoạt động đơn tuyến trong lòng địch tại Sở Nghiên cứu chính trị – xã hội (cơ quan mật vụ của chính quyền Ngô Đình Diệm, sau này là Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo Sài Gòn của chính quyền Việt Nam Cộng hòa). Trước đó, ông còn có gần 3 năm hoạt động bí mật trong vùng kiểm soát của đối phương trước khi chính thức vào Nam nhận nhiệm vụ chiến lược.
Trong suốt thời gian hoạt động, Thiếu tướng Đặng Trần Đức đã trực tiếp tham gia và góp phần quyết định vào nhiều điệp vụ đặc biệt quan trọng. Ông từng cứu Hoàng thân Campuchia Norodom Sihanouk thoát chết trong một vụ ám sát, đồng thời kịp thời bảo vệ ông Nguyễn Văn Linh, khi đó là Bí thư Đặc khu ủy Sài Gòn – Gia Định, sau này trở thành Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đáng chú ý, khi những câu chuyện này được công bố, không ít người, trong đó có cả gia đình cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, từng bày tỏ sự hoài nghi. Chỉ đến khi Tổng cục II (Bộ Quốc phòng) chính thức xác nhận, các chiến công đặc biệt ấy mới được thừa nhận đầy đủ.
Không chỉ hoạt động hiệu quả trong lòng địch, ông Ba Quốc còn góp công lớn trong việc phản gián ở miền Bắc. Ông tham gia xử lý, triệt phá hoàn toàn 7 ổ gián điệp do Mỹ cài cắm, nằm trong bộ hồ sơ mang mật danh “Stay Behind in North Viet Nam”. Ở một nhiệm vụ khác, theo sự phân công trực tiếp của Cục trưởng, ông tiếp tục góp phần “bóc gỡ” thêm 35 ổ gián điệp, bảo vệ an toàn an ninh quốc gia trong giai đoạn đặc biệt nhạy cảm.
Sau ngày đất nước thống nhất, Thiếu tướng Đặng Trần Đức trở thành một trong những chỉ huy tình báo chiến lược chủ chốt. Ông là người sớm phát hiện âm mưu diệt chủng của tập đoàn Pol Pot, kịp thời tham mưu cho Tổng hành dinh, góp phần quan trọng vào quyết định đưa quân tình nguyện Việt Nam sang Campuchia, chấm dứt nạn diệt chủng, đồng thời củng cố vững chắc tuyến biên giới Tây Nam của Tổ quốc.
Với những cống hiến đặc biệt xuất sắc cho sự nghiệp cách mạng, năm 1978, ông được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân. Đến năm 1990, ông tiếp tục được phong hàm Thiếu tướng, ghi nhận xứng đáng cho một cuộc đời gần trọn vẹn gắn với những nhiệm vụ tình báo thầm lặng nhưng có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng đối với đất nước.