Liên quan đến phản ánh về khoản tiền thưởng Tết cuối năm (tháng lương thứ 13) được cộng dồn vào thu nhập tăng vọt và bị áp thuế ở bậc cao hơn. Mới đây Cục Thuế đã có câu trả lời rõ ràng về vấn đề nêu trên.
Theo thông tin từ báo VietNamNet, chị N.T.T (trú tại Đồng nai) đang làm việc tại doanh nghiệp FDI đã có phản ánh bất cập liên quan đến chính sách thuế thu nhập cá nhân đối với khoản tiền thưởng Tết. Cụ thể, theo chị T thì khoản tiền thưởng cuối năm (tháng lương thứ 13) của chị được cộng dồn vào thu nhập tháng 12 hoặc tháng 1.
Điều này khiến tổng thu nhập của tháng đó tăng vọt và bị áp thuế ở bậc cao hơn theo biểu thuế lũy tiến từng phần. Mặc dù thu nhập thực tế trong cả năm không thay đổi, người lao động vẫn bị thiệt do khoản thuế khấu trừ tạm thời cao hơn.
Trước vấn đề trên, chị T. kiến nghị Bộ Tài chính nghiên cứu phương án sửa đổi cách tính thuế đối với khoản tiền thưởng cuối năm. Phương án thứ nhất là cho phép doanh nghiệp và người lao động được lựa chọn tính bình quân khoản thưởng trên tổng thu nhập cả năm. Phương án thứ hai là tách riêng khoản thưởng để áp dụng bậc thuế hợp lý, tránh gây thiệt thòi không đáng có cho người lao động.
Trả lời kiến nghị, Cục Thuế (Bộ Tài chính) dẫn quy định tại Nghị định số 65/2013/NĐ-CP về thu nhập chịu thuế và xác định thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công như sau:
Thu nhập từ tiền lương, tiền công và các khoản có tính chất tiền lương, tiền công dưới các hình thức bằng tiền hoặc không bằng tiền, kể cả thưởng bằng chứng khoán là thu nhập chịu thuế.
Đối với cá nhân có ký hợp đồng lao động, hàng tháng tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập khấu trừ thuế của từng cá nhân căn cứ vào thu nhập tính thuế tháng và biểu thuế lũy tiến từng phần.
Theo quy định tại Nghị định 126 của Chính phủ, tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế thu nhập cá nhân có trách nhiệm khai thuế thu nhập cá nhân theo tháng hoặc theo quý.
Tổ chức, cá nhân trả thu nhập từ tiền lương, tiền công có trách nhiệm khai quyết toán thuế và quyết toán thuế thay cho cá nhân có ủy quyền hoặc cá nhân thực hiện kê khai, nộp thuế, khai quyết toán thuế thu nhập cá nhân trong một số trường hợp.
Cơ quan thuế cũng dẫn quy định tại Thông tư số 111/2013 của Bộ Tài chính như sau:
Tại điểm a, điểm c khoản 2 Điều 2, khoản 2 Điều 8 và điểm b.1 khoản 1 Điều 25 Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính quy định:
"Điều 2. Các khoản thu nhập chịu thuế
...2. Thu nhập từ tiền lương, tiền công là thu nhập người lao động nhận được từ người sử dụng lao động, bao gồm:
a) Tiền lương, tiền công và các khoản có tính chất tiền lương, tiền công dưới các hình thức bằng tiền hoặc không bằng tiền
...e) Các khoản thưởng bằng tiền hoặc không bằng tiền dưới mọi hình thức, kể cả thưởng bằng chứng khoán,...".
"Điều 8. Xác định thu nhập chịu thuế từ tiền lương tiền công
... 2. Thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công
a) Thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công được xác định bằng tổng số tiền lương, tiền công, tiền thù lao, các khoản thu nhập khác có tính chất tiền lương, tiền công mà người nộp thuế nhận được trong kỳ tính thuế theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 2 Thông tư này.
b) Thời điểm xác định thu nhập chịu thuế.
Thời điểm xác định thu nhập chịu thuế đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công là thời điểm tổ chức, cá nhân trả thu nhập cho người nộp thuế...
"Điều 25. Khấu trừ thuế và chứng từ khấu trừ thuế
1. Khấu trừ thuế
… b.1) Đối với cá nhân cư trú ký hợp đồng lao động từ ba (03) tháng trở lên thì tổ chức, cá nhân trả thu nhập thực hiện khấu trừ thuế theo Biểu thuế lũy tiến từng phần, kể cả trường hợp cá nhân ký hợp đồng từ ba (03) tháng trở lên tại nhiều nơi".
Như vậy, đối với cá nhân cư trú ký hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên thì tổ chức, cá nhân trả thu nhập thực hiện khấu trừ thuế theo biểu thuế lũy tiến từng phần, kể cả trường hợp cá nhân ký hợp đồng từ 3 tháng trở lên tại nhiều nơi.
Pháp luật hiện hành đã có quy định về việc tổng hợp thu nhập, tính thuế, khấu trừ và khai nộp thuế thu nhập cá nhân. Do vậy, cơ quan thuế đề nghị bà T. căn cứ quy định và thu nhập thực tế phát sinh để thực hiện nghĩa vụ thuế đúng quy định.