So với 60 năm về trước, công nghệ máy tính thực sự đã có những bước phát triển rất nhanh chóng. Từ một cỗ máy khổng lồ với kích thước tương đương một căn phòng, những chiếc máy tính ngày nay đã có thể thu gọn như một quyển sách mà bạn có thể mang đi bất kỳ đâu.
Ý tưởng
Ý tưởng về chiếc Dynabook
Đầu những năm 1970, các nhà khoa học của Xeror đã đưa ra ý tưởng về một hệ thống máy tính di động với tên gọi Dynabook. Ý tưởng về Dynabook là chiếc máy tính một màn hình (giống như những chiếc máy tính bảng hiện nay), và có tuổi thọ pin gần như vĩnh cửu. Thật không may, công nghệ trong những năm 1970 đã không đủ tiên tiến để thực hiện ý tưởng này và khái niệm Dynabook cũng biến mất từ đó.
Chiếc laptop đầu tiên
Osborne 1: Cố máy tiên phong cho cuộc cách mạng Laptop
Năm 1981, chiếc laptop đầu tiên ra đời với hình dáng một chiếc vali lớn nặng hơn 9 kg với cái tên Osborne 1. Với kích thước cồng kềnh, màn hình CRT rất nhỏ, khoảng 5 inches, không có pin cùng với mức giá cao “cắt cổ” $1.795, Osborne 1 đã tự không cho mình cơ hội phát triển, mặc dù nó vẫn là cỗ máy tiên phong cho cuộc cách mạng Laptop.
Compass Grid với thiết kế vỏ sò đặc trưng
Chiếc máy tính xách tay “thực sự” theo đúng nghĩa phải nói đến Compass Grid, được giới thiệu vào năm 1982. Thiết kế vỏ sò đặc trưng với màn hình phẳng có thể gấp xuống trên bàn phím đã mang lại lợi thế phát triển cực kỳ lớn cho Compass Grid. Tuy nhiên với mức giá cực kỳ cao, không tương thích với các hệ thống IBM lúc bấy giờ đã hạn chế sức hấp dẫn của nó trong thị trường thương mại, được sử dụng chủ yếu ở quân đội Mỹ và NASA.
![]() |
![]() |
Compaq Portable | Epson HX-2 |
Tiếp sau đó, hai chiếc máy tính xách tay khác là Compaq Portable và Epson HX-2 được tung ra thị trường vào năm 1983. Compaq Portable là chiếc máy tính đầu tiên sử dụng hệ điều hành MS-DOS, tương thích với hầu hết các phần mềm của IBM, cho phép dễ dàng chuyển đổi dữ liệu với các hệ thống máy tính khác. Epsom HX-20 có kết cấu khá đơn giản, tương đối rẻ tiền và pin có thể được sạc lại. Với những đặc điểm đó, chúng đã được đông đảo giới doanh nghiệp lúc đó đón nhận, tạo tiền đề cho cuộc cách mạng mở rộng thị trường máy tính xách tay sau này.
Kyotronic Kyocera: Sản phẩm được giới báo chí Mỹ rất ưu chuộng
Chiếc máy tính xách tay được bán chạy nhất phải kể đến là chiếc Kyotronic Kyocera, lần đầu tiên được giới thiệu tại Nhật Bản nhưng với doanh thu khá khiêm tốn. Nhận thấy được tiềm năng của nó, các kỹ sư máy tính Mỹ đã nhanh chóng tiếp cận, phát triển và tiếp thị nó ở thị trường Mỹ. Mặc dù không có thiết kế vỏ sò truyền thống, nhưng với kích thước nhỏ gọn, chạy được một số ứng dụng của Microsoft, pin AA thông thường và đặc biệt là mức giá mềm (khoảng $300), Kyotronic Kyocera đã được giới nhà báo và phóng viên Mỹ đặc biệt chú ý.
Tương thích với các hệ thống IBM
Mặc dù đã có những thành công nhất định song những chiếc laptop lúc đó vẫn gặp phải rất nhiều khó khăn trong việc chuyển giao dữ liệu do không tương thích với hệ thống IBM trong khi IBM là nền tảng quan trọng cho hầu hết các máy tính để bàn khác. Để đáp ứng nhu cầu này, năm 1986 và 1987, IBM và Toshiba đã lần lượt tung ra thị trường hai mẫu laptop có tên IBM PC Convertible và Toshiba T1000. Với nhiều ưu điểm như: nhỏ gọn, tương thích với hệ thống IBM và MS-DOS, tính năng tạm dừng cho phép người dùng tiếp tục làm việc mà không cần khởi động lại, thế nhưng với mức giá quá cao, $2500, hai chiếc laptop của IBM và Toshiba đã không thực sự đạt được nhiều thành công như mong đợi.
Bước đệm quan trọng
Đó là khi Lực lượng Hàng Không Hoa Kỳ đưa ra bản hợp đồng 200.000 máy tính xách tay cho tất cả các nhà sản xuất laptop lúc bấy giờ. Một cuộc đua cạnh tranh giành chiến thắng đã diễn ra khốc liệt và kết quả là laptop đã tìm được chỗ đứng quan trọng của mình trong thị trường máy tính. Chiến thắng thuộc về Zenith Data Systems (ZDS), nhờ đó họ đã vươn lên trở thành nhà sản xuất máy tính xách tay lớn nhất vào cuối năm 1980. ZDS đã rất khôn ngoan khi bắt tay với các nhà cung cấp thiết bị Nhật bản nhằm giảm giá thành sản phẩm, mang laptop tới gần hơn với người tiêu dùng. Tuy nhiên khi tiền tệ Nhật Bản trở nên mạnh mẽ vào đầu những năm 1990, mức lợi nhuận bắt đầu giảm, nhiều nhà đầu tư Mỹ đã chuyển sang các nhà cung cấp thiết bị của Đài Loan (trong đó có Dell, Gateway, Micron). Một cuộc chạy đua đã thực sự diễn ra, với tiêu chí mang tới những chiếc laptop nhẹ hơn, nhanh hơn, đáp ứng nhiều tác vụ hơn tới người dùng.
Apple bước chân vào thị trường
PowerBook 520: Một trong mười sản phẩm mang tính lịch sử của Apple
Apple đã rất thành công trọng thị trường máy tính để bàn trong những năm 1980, nhưng tương đối chậm chạp trong thị trường máy tính xách tay. Mãi đến năm 1989 Apple mới phát hành chiếc máy tính di động Macintosh Portable (nói là máy tính di động vì thiết kế của nó rất cồng kềnh), với đặc điểm nổi bật đó là màn hình hiện thị cực kỳ sắc nét. Mặc dù Apple đã bị chậm chân trong việc xâm nhập thị trường máy tính xách tay, nhưng quả đúng không sai “Chậm mà chắc”, Apple đã cho thấy câu nói đó luôn đúng. Năm 1993, Apple đưa ra mẫu máy tính xách tay Apple PowerBook series 500, chính là hình mẫu hoàn chỉnh của chiếc laptop hiện đại. Đây là laptop đầu tiên có touchpad, hệ thống xử lý âm thanh 16-bit, hệ thống loa stereo và rất nhiều điều mới mẻ khác đã trở thành phổ thông trong laptop hiện đại.
Microsoft chuẩn hóa laptop
Có lẽ sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử của laptop đó là việc phát hành hệ điều hành Microsoft Windows 95. Trước đó có rất nhiều hệ điều hành cho máy tính khác nhau, mỗi hệ điều hành đều được xây dựng để phục vụ cho sản phẩm của mình, với những lợi thế riêng. Sự ra đời của Windows 95 đã giúp chuẩn hóa các tiêu chí và ổn định các hệ thống phần mềm trên máy tính xách tay. Cũng trong năm này, ổ đĩa CD-ROM, bộ xử lý Intel Pentium và ổ đĩa mềm ra đời, đã giúp cho laptop đạt được phát triển cực kỳ nhanh chóng.
Khi công nghệ đã phát triển từ năm 1995, sự phổ biến và tính khả thi của laptop đã tang lên rất nhiều. Tuổi thọ pin được cải thiện, màn hình hiển thị ngày càng sắc nét, bộ vi xử lý mạnh, các chuẩn kết nối được đưa ra, đáp ứng nhu cầu làm việc mọi lúc, mọi nơi của người sử dụng.
Ngày nay, laptop đã khác xa so với những chiếc máy tính xách tay cồng kềnh của những năm 1980. Đó là những chiếc Ultrabook, tablet với thân hình mảnh dẻ nhưng ẩn chứa sức mạnh đáng kinh ngạc, và với sự tiến bộ vượt bậc của công nghệ như hiện nay, hãy cùng chờ đón những siêu phẩm khác trong tương lai không xa.
1981, chiếc laptop đầu tiên ra đời với hình dáng một chiếc vali lớn nặng hơn 9 kg. Sản phẩm được đặt tên là Osborne 1, với vi xử lý Zilog Z80 4 MHz, bộ nhớ RAM tích hợp 64 KB, màn hình đen trắng có độ phân giải 52 x 24 pixel. 1983, Compaq Portable và Epson HX-2 được tung ra thị trường. Compaq Portable là chiếc máy tính đầu tiên sử dụng hệ điều hành MS-DOS, tương thích với hầu hết các phần mềm của IBM, cho phép dễ dàng chuyển đổi dữ liệu với các hệ thống máy tính khác. Epsom HX-20 có kết cấu khá đơn giản, tương đối rẻ tiền và pin có thể được sạc lại 1986, IBM PC Convertible ra đời với màn hình LCD, vi xử lý 8088 có xung nhịp 4.77 MHz, bộ nhớ RAM 256KB, nặng khoảng 5.5Kg. 1988, Compaq SLT/286 giới thiệu laptop đầu tiên có màn hình hiển thị VGA. Vi xử lý Intel 8086 có xung nhịp 9,55 MHz, bộ nhớ RAM 640 KB và ổ đĩa cứng 20 MB. 1993, Apple PowerBook series 500 ra đời, chính là hình mẫu hoàn chỉnh của laptop hiện đại. 1998, HP Jornada 820 là mẫu laptop đầu tiên thể hiện ý tưởng netbook - loại laptop mini đang rất được ưa chuộng. 2006, HP Pavilion dv2000 series mở đầu cho thời kỳ laptop song hành cùng thời trang và sự tinh tế 2007 , Asus Eee PC 701 xuất hiện trên thị trường, đánh dấu một xu thế phát triển mới của thị trường laptop và ngành công nghiệp PC. Sản phẩm này tiên phong cho trào lưu laptop mini hay còn gọi là netbook. 2008, Apple MacBook Air khiến thị trường phải "định nghĩa lại" thế nào là laptop siêu di dộng với độ mảnh dẻ bất ngờ. |